Việc tái bản cuốn sách này phục vụ độc giả ngày nay xuất phát từ những thay đổi trong chính đề tài cuốn sách. Vì thế, bạn nên lưu ý đọc cẩn thận hơn nhằm làm sáng tỏ từng bước lập luận. Tốt là một thuật ngữ triết học quan trọng và cũng là một từ quan trọng trong ngôn ngữ hàng ngày của chúng ta.
Cuối cùng, khi đọc thơ trữ tình, bạn không nhất thiết phải biết nhiều về tác giả và hoàn cảnh sáng tác bài thơ. Chúng tôi sẽ giải thích tại sao những cuốn sách chuyên luận về kinh tế, đạo đức hay chính trị (thường được coi là những sách mang tính quy chuẩn, quy phạm) lại là một nhóm rất đặc biệt trong danh mục sách thực hành. Khái niệm và thuật ngữ khoa học xã hội bao trùm gần như tất cả những gì chúng ta đọc ngày nay.
Cuốn sách này đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của bổn phận như là nền tảng cho mọi hành động đúng đắn và sự nhấn mạnh đó có thể khiến nhiều độc giả hiện đại khó chịu. Vì thế, tác phẩm của Commoner dù chủ yếu là lý thuyết nhưng lại có tầm quan trọng vượt lên trên lý thuyết và đi vào thực tế. Giai đoạn ba - vốn từ vựng tăng lên và biết sử dụng ngữ cảnh - hầu hết các trẻ thường đạt được vào khoảng cuối lớp bốn.
Một số tác phẩm khác như cuốn On the Soul (Nói về linh hồn) là sự pha trộn giữa lý thuyết triết học và khám phá khoa học đầu tiên. Khi đánh giá một cuốn sách thực hành, mọi thứ đều hướng tới kết quả đạt được. Các tác giả khác nhau thường sử dụng những từ ngữ khác nhau khi nói về cùng một vấn đề, hoặc những từ ngữ giống nhau khi đề cập đến những vấn đề khác nhau.
Nhờ sự đồng tình đó, người đọc có thể nhìn thấu được ngôn ngữ người viết đã sử dụng để thể hiện ý tưởng. Ví dụ, cuốn Elements (Các yếu tố) của Euclid được chia thành mười ba phần hay mười ba quyển và bạn có thể tách riêng cuốn thứ nhất ra đọc mà vẫn có thể hiểu được. Một nhân chứng không thể giả sử bất cứ điều gì, cũng không thể đoán, đưa ra giả thuyết hay ước chừng (trừ trong những điều kiện được giám sát rất cẩn thận).
Một cuộc tranh luận có ý nghĩa không nên là một cuộc cãi vã về các nhận định. Đây là những từ được dùng để gọi tên các thực thể hình học mà Euclid đã định nghĩa. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu khá sâu về vấn đề này (Chú thích: Kết quả của những nghiên cứu này được xuất bản trong cuốn The Idea of Progress, New York: Praeger, 1967.
Trong việc đọc sách, khi độc giả bất đồng quan điểm với một vấn đề được trình bày trong sách, độc giả đó cần phải đảm bảo rằng sự bất đồng ý kiến này không xuất phát từ hiểu lầm. Thứ hai, nếu lời bình luận đưa ra là đúng thì cũng chưa chắc đã thấu đáo (tức là bạn có thể phát hiện ra những ý nghĩa quan trọng trong một cuốn sách mà một bình luận gia chưa phát hiện thấy). Sai lầm này dù xuất phát từ nguyên nhân gì cũng cho thấy tác giả đã ngộ nhận mình có kiến thức trong khi thật sự anh ta không hề có.
Đó là các câu hỏi về kiến thức hạng nhất của chúng ta, về suy nghĩ của chúng ta khi cố gắng trả lời các câu hỏi hạng nhất, về cách thức chúng ta diễn tả những suy nghĩ đó trong ngôn ngữ. Người đọc chỉ có thể nhận ra sự chuyển đổi sắc thái ý nghĩa của chúng thông qua ngữ cảnh cụ thể. Bạn không thể tuỳ tiện sắp xếp ý tưởng.
Nhưng cả ba người đều dùng chung một động từ. Hãy đọc nếu đó là một cuốn sách bìa cứng. Tuy nhiên, chúng ta luôn có thể hiểu những thuật ngữ quan trọng qua một vài ý nghĩa phổ biến của chúng.
Bạn có thể kể lại kinh nghiệm nào của bản thân mà nhận định đó miêu tả, hoặc chỉ ra mức độ phù hợp giữa nhận định của tác giả với thực tế trải nghiệm của bạn không? Bạn có thể minh hoạ cho chân lý đã được phát biểu bằng những ví dụ cụ thể hay không? Tưởng tượng ra một trường hợp khả thi cũng hiệu quả không kém việc nêu ra một tình huống thật. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu cho rằng không có qua tắc nào có thể áp dụng khi đọc các tác phẩm văn học giả tưởng. Chúng phải là giả thuyết hoặc kết luận.